NGƯỜI KINH – HOẠT ĐỘNG KINH TẾ

  1. Trồng trọt

Tại Sơn La, người Kinh sinh sống tập trung chủ yếu ở vùng thấp, nơi có điều kiện giao thông, buôn bán thuận lợi.

Tài liệu thống kê năm 2009 cho thấy, trong tổng số người Kinh ở Sơn La thì có tới 103.730 người (chiếm 54,75%) cư trú ở khu vực thành thị, còn 85.730 người (chiếm 45,25%) cư trú ở khu vực nông thôn. Điều này phản ánh một thực trạng: người Kinh sinh sống bằng các nghề phi nông nghiệp và bán nông nghiệp thuộc khu vực thành thị ở Sơn La khá cao.

Cũng như ở các tỉnh đồng bằng, tại các vùng nông thôn ở Sơn La, người Kinh sinh sống chủ yếu dựa vào việc canh tác lúa và các loại cây hoa màu khác. Trong canh tác các loại cây trồng, do phải thích ứng với môi trường đất dốc và dựa vào mưa… nên đồng bào phải thay đổi cơ cấu cây trồng, cũng như kỹ thuật canh tác. Trải qua nhiều năm, cộng đồng người Kinh ở Sơn La đã tạo được thói quen của cuộc sống mới, mặc dù vẫn sống dựa vào nông nghiệp trồng trọt là chính, nhưng các hoạt động sinh kế của họ đã biến đổi rất nhiều so với ở quê hương cũ.

1. Số liệu năm 2009 gồm cả huyện Vân Hồ khi chưa tách.

Trước đây, một số giống lúa ở quê hương cũ, được người Kinh đưa lên, gieo cấy ở Sơn La. Trải qua thời gian, cùng với các loại giống lúa truyền thống, các giống lúa mới xuất hiện ngày càng nhiều, như: NN8, NN22, IR203, VN10, N87, IR64, IR11, IR352, Bắc thơm, QT5 Đây là những giống lúa không những được cộng đồng người Kinh, mà còn được cả các dân tộc Thái, Mường, La Ha, Khơ Mú, Tày… sử dụng canh tác tương đối phổ biến. Hiện tại, nhiều giống lúa có nguồn gốc Trung Quốc như Khang dân, Tạp giao, Tam ưu… cũng đã được người Kinh và các tộc người thiểu số lựa chọn, đưa vào canh tác trên đồng ruộng ở các địa phương trong tỉnh.

Ở Sơn La, do những điều kiện thuận lợi về đất đai và khí hậu, việc canh tác các loại ngô hàng hóa được người Kinh chú trọng hơn. Đồng bào đã sử dụng cả giống ngô của bà con các dân tộc tại chỗ để đưa vào gieo trồng; thời gian gần đây chuyển sang trồng ngô năng suất cao: ngô Răng ngựa, Biosid và các giống ngô lai mới (LVN9, LVN99, DK9901, DK6654, LVN 8, LVN10...).

So với các dân tộc thiểu số, người Kinh ở Sơn La chú trọng hơn đến việc phát triển kinh tế vườn. Vườn của đồng bào trồng các loại rau, đậu quanh năm, một phần để đáp ứng nhu cầu gia đình, một phần để bán và cung cấp thức ăn cho gia súc. Các giống rau được trồng chủ yếu là: cà chua, các loại đậu, cải củ, cải sen, cải bắp, xu hào (rau màu vụ đông), bầu bí, mướp, rau đay, mồng tơi (rau màu vụ hè) và các loại rau thơm, gia vị (rau mùi, thì là, húng, hành, sả, ớt…). Chính sự có mặt của cộng đồng người Kinh ở Sơn La đã đem lại sự phong phú của các chủng loại rau màu trong tỉnh.

Các loại cây ăn quả như: bưởi, cam, chanh, ổi, mít, na, hồng, cau, roi… đã được cộng đồng người Kinh ở Sơn La trồng khá phổ biến trong vườn nhà và vườn rừng. Đặc biệt, với những người có gốc ở Thái Bình, Hưng Yên, Hà Tây… đã gây dựng vùng chuyên canh nhãn (Sông Mã), mận hậu, chè (Mộc Châu), mía (Mai Sơn)… Nhiều vùng khác (Mai Sơn, Thuận Châu, Phù Yên) cũng đã xuất hiện vùng trồng cam, cà phê, dong, riềng và một số cây dược liệu khác. Như vậy, khác miền xuôi, tại Sơn La, cộng đồng người Kinh có tập đoàn giống cây trồng, với nhiều giống mới mà những người đồng tộc của họ ở các tỉnh quê cũ rất ít canh tác (chè, dong, riềng, sắn, mận hậu, cà phê, lúa nương).

Việc xuất hiện tập đoàn giống cây trồng mới, cũng như việc hình thành các vùng chuyên canh, vùng sản xuất hàng hóa… đã dần hình thành thói quen, kỹ thuật canh tác mang tính khu vực riêng biệt của người Kinh ở Sơn La nói riêng và trên toàn vùng Tây Bắc nói chung.

Do điều kiện khí hậu khô hanh, lạnh và có nhiều sương muối về mùa đông, vụ đông – xuân tuy được người Kinh ở Sơn La lưu tâm phát triển, song chiếm tỷ trọng không lớn trong toàn bộ thu nhập từ nông nghiệp của họ. Giữ vai trò quan trọng trong trồng trọt của người Kinh ở đây là vụ chiêm xuân và vụ mùa. Nông lịch, mùa vụ của họ cũng gần tương tự như của cư dân các dân tộc thiểu số khác, những cộng đồng đã sinh sống ở Sơn La nhiều đời nay.

Hiện nay, một năm với hai vụ chính: vụ chiêm và vụ mùa, tại một vài nơi có điều kiện về đất đai hoặc ở gần các thị trấn, người Kinh ở Sơn La đã làm thêm vụ đông – xuân, nhưng chủ yếu là trồng các loại rau màu. Còn lại hầu hết ở các vùng nông thôn Sơn La, họ đều chỉ canh tác hai vụ chính trong năm. Thời gian gieo cấy vụ chiêm (tháng 12 năm trước đến tháng Giêng năm sau), vụ mùa (tháng 6, tháng 7), thu hoạch vào tháng 5, tháng 6 đối với vụ chiêm, và tháng 10 đối với vụ mùa, là những khoảng thời gian họ bận rộn nhất. Về cơ bản, nông lịch của họ không thay đổi nhiều so với ở quê cũ vùng đồng bằng. Tuy nhiên, do khí hậu ở Sơn La khác ở miền xuôi nên mùa vụ canh tác các loại cây trồng ở đây thường muộn hơn một hoặc hơn một tháng.

Trong truyền thống canh tác của người Kinh ở quê hương cũ, việc làm đất ruộng cấy lúa bao gồm hai loại hình kỹ thuật, ứng với hai loại ruộng khác nhau: ruộng ở các cánh đồng cao, dễ tiêu nước, phải làm đất phơi ải; ruộng ở các cánh đồng chiêm trũng, không tiêu được nước, làm đất theo kiểu ngâm nước (ruộng dầm).

Tại Sơn La, do địa hình dốc rất dễ thoát nước, nhiều nơi người Kinh áp dụng kỹ thuật làm đất ải. Cũng như các dân tộc khác, họ đã được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp và lâm nghiệp lâu dài. Đây là một trong những yếu tố thuận lợi thúc đẩy trồng trọt ở địa phương phát triển.

Những nơi nhiều đất thung lũng, có các cánh đồng rộng, cộng đồng người Kinh tập trung vào canh tác ruộng nước với kỹ thuật làm ải là chính. Những nơi ít ruộng, họ canh tác các loại cây công nghiệp, ngô, khoai, sắn… trên nương.

Cách thức khai phá, xử lý đất trồng trên cạn của họ không có gì đặc biệt khác so với cư dân tại chỗ. Quy trình đó cũng bao gồm: chọn đất làm nương, phát cây, để khô rồi đốt, dọn nương, cày hoặc cuốc trước khi gieo trồng. Khác với cư dân tại chỗ, việc sử dụng phân gia súc, phân chuồng, tro bếp để bón lót trước khi gieo trồng rất phổ biến và không thể thiếu trong canh tác các loại cây trồng của họ. Tại Sơn La, cộng đồng người Kinh vẫn dùng trâu làm sức kéo để làm đất trồng trọt. Những năm gần đây, một số hộ nông dân đã dùng các loại máy kéo để làm đất và vận chuyển. Tuy vậy, dùng trâu làm sức kéo trong sản xuất nông nghiệp vẫn là phổ biến.

Bộ nông cụ dùng vào việc làm đất của người Kinh ở Sơn La bao gồm các loại cày bừa cầm tay truyền thống, như: cày 51, bừa chữ nhi răng sắt, cuốc bàn, cuốc chim, mai, thuổng, xẻng, vồ đập đất, đầm tay… Bên cạnh các loại nông cụ làm đất truyền thống vốn có của mình, đồng bào cũng dùng cuốc bướm của người Thái, một vài nơi, họ còn dùng cả gậy chọc lỗ, theo kiểu của dân cư địa phương, để gieo trồng lúa trên nương… Khi hợp tác xã nông nghiệp giải thể, tất cả các công đoạn canh tác do các nông hộ tự tổ chức, việc dùng máy cày tay dần phổ biến, dùng sức người trong khâu làm đất trồng trọt xuất hiện trở lại.

Về kỹ thuật gieo trồng, đáng chú ý nhất là sự xuất hiện các kỹ thuật gieo trồng trên nương của người Kinh ở Sơn La.

Một bộ phận khi mới định cư hầu như không ảnh hưởng kỹ thuật của lối quảng canh (phát – đốt – chọc lỗ tra hạt,…) của các tộc người khác. Khi đó, dùng cuốc chim, cuốc bàn để cuốc hốc, làm rãnh gieo trồng, là kỹ thuật vốn có của họ, được áp dụng vào canh tác nương rẫy. Đối với lúa ruộng, trong quãng thời gian hợp tác xã nông nghiệp bắt đầu hình thành và phát triển, cũng như ở miền xuôi, kỹ thuật làm đất, bón lót, làm mạ, dầm mạ, cấy thẳng hàng theo kiểu chăng dây, làm cỏ sục bùn, bón đón đòng,… có sẵn từ khi còn ở quê cũ miền xuôi, của người Kinh ở Sơn La, chiếm ưu thế ở quê hương mới.

Điều kiện địa hình, chế độ thủy văn, hệ thống sông suối ở Sơn La hoàn toàn khác với các tỉnh đồng bằng. Đây là một trong những thách thức lớn trong canh tác lúa nước của cộng đồng người Kinh ở quê mới. Giải pháp về nước tưới cho cây trồng của họ, phần nào đã chịu ảnh hưởng kinh nghiệm của cư dân bản địa. Trước tiên họ buộc phải tìm nơi gần nguồn nước để khai phá đồng ruộng. Các kỹ thuật dẫn thủy nhập điền của cư dân tại chỗ như đắp phai ngăn suối cho nước dâng cao, dẫn vào mương vào máng, đưa vào ruộng cao nhất, tháo tràn xuống ruộng thấp và tiêu xuống suối; tìm nguồn ở khe, ở mó, dẫn bằng mương vào ruộng cao, tháo tràn xuống ruộng thấp và tiêu xuống suối… được người Kinh ở Sơn La học tập và ứng dụng tương đối phổ biến. Các loại guồng, gầu… ở quê cũ không còn phát huy tác dụng ở vùng núi đồi trung du, họ loại bỏ dần. Trong thời gian sản xuất nông nghiệp được tổ chức theo các hợp tác xã nông nghiệp, vấn đề nước cho cây trồng do tập thể lo liệu, đây chính là một trong những thuận lợi tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống. Đến nay, tuy vai trò của hợp tác xã nông nghiệp đã được chuyển đổi, sản xuất trở lại quy mô gia đình, nhưng thủy lợi ở Sơn La vẫn được Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cấp chính quyền địa phương đặc biệt chú ý, hệ thống mương máng bê tông được xây dựng bằng kinh phí của các Dự án định canh định cư, của Chương trình 135Chỉ tính từ năm 1999 đến năm 2015, hàng trăm công trình thủy nông lớn nhỏ đã được xây dựng ở Sơn La, đây là một trong những thuận lợi căn bản đối với phát triển nông nghiệp ở miền núi nói chung và ở Sơn La nói riêng.

Tuy công tác thủy lợi được bảo đảm khá tốt, nhưng do sinh sống ở miền núi nên cộng đồng người Kinh ở Sơn La vẫn không tránh khỏi việc buộc phải dựa theo chế độ mưa theo mùa để canh tác các loại cây trồng. Đây chính là một trong những thế mạnh và là kinh nghiệm quý báu của cư dân các dân tộc tại chỗ ở Sơn La. Việc sử dụng loại cây trồng gì, trồng trên loại đất nào và gieo trồng vào thời gian nào trong năm,… đã được họ học hỏi và tiếp nhận ở cư dân địa phương khá nhanh. Ngược lại, bằng kỹ thuật canh tác khá cao của mình, cộng đồng người Kinh ở Sơn La đã góp phần không nhỏ vào việc đưa các giống cây trồng mới vào đồng đất Sơn La, cải tiến, nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác, làm tăng năng suất, sản lượng cây trồng, nhất là lúa, các loại cây lương thực, cây công nghiệp khác.

Trong các giải pháp chăm bón cho lúa và các loại cây trồng khác, bón thúc làm cỏ, sục bùn, vun gốc… cho cây trồng được người Kinh ở Sơn La rất chú trọng. Theo kinh nghiệm truyền thống: “công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn” làm cỏ, vun xới, chăm bón, bảo vệ,… là khâu quyết định quan trọng tới năng suất và sản lượng của lúa và các loại hoa màu khác. Đối với các loại cây trồng, đều được chăm sóc qua từng thời kỳ, với các khâu làm cỏ, bón thúc, vun gốc từ hai đến ba lần. Đối với lúa, làm cỏ, sục bùn, bón thúc bằng phân hóa học ít nhất là hai lần. Công cụ chính dùng để làm cỏ ruộng lúa là cào cỏ, loại cào này chỉ phù hợp với các chân ruộng lúa được cấy thẳng hàng và là loại nông cụ rất phổ biến trong canh tác lúa ở đồng bằng Bắc Bộ suốt từ năm 1960 đến năm 1980. Tuy nhiên, với các giống lúa mới hiện nay, loại cào này không còn thích hợp và đã bị loại bỏ.

Người Kinh cũng sử dụng công cụ thu hoạch lúa bằng liềm. Từ những năm 1960, chiếc hái dùng để cắt lúa ruộng trũng cũng dần được thay thế bằng liềm.

Liềm để thu hoạch lúa, gồm liềm cắt gốc lúa (liềm con/liềm cắt) và liềm xén (dài và lưỡi thẳng). Những năm gần đây, liềm xén đã bị loại bỏ, chỉ còn lại liềm con – liềm cắt; dùng liềm cắt ngang cây lúa, bó lại thành lượm, vận chuyển về nhà bằng quang gánh hoặc dùng máy kéo, xe công nông…

Trước đây, người dân có thói quen đập lúa bằng néo, trục rơm bằng trâu hoặc người kéo; gần đây, dùng máy tuốt lúa chạy bằng động cơ, máy tuốt lúa đạp bằng chân… rê thóc bằng quạt hòm (đóng bằng gỗ)…

Ở Nông trường Mộc Châu, người Kinh chuyên canh trồng chè và chăn nuôi bò sữa. Họ tuân thủ theo kỹ thuật tương đối hiện đại, có nhiều điểm mới, đã trở thành hoạt động sản xuất kinh tế mới của bộ phận người Kinh ở Sơn La. So với các dân tộc khác, người Kinh ở Sơn La đã tiếp cận, khai thác, sử dụng… tốt các điều kiện về tự nhiên, thổ nhưỡng của Mộc Châu để trồng trọt, chăn nuôi. Do đó, đời sống của họ cũng dư dả, giàu có hơn các dân tộc khác ở đây.

Ở Sông Mã, Sốp Cộp trong những năm 60-70 của thế kỷ XX, một bộ phận người Kinh từ Hưng Yên lên xây dựng kinh tế mới cũng chủ yếu làm nông nghiệp; họ đã phát triển trồng nhãn và sản xuất chế biến long nhãn cổ truyền, mà sau này đã trở thành thương phẩm hàng hóa có giá trị. Giống nhãn lồng được mang từ Hưng Yên lên không chỉ được trồng phổ biến ở khu vực Sông Mã, Sốp Cộp, mà còn trồng trên địa bàn các xã giáp giới, thuộc các huyện lân cận (Mai Sơn, Thuận Châu…).

Kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi của người Kinh đã được phổ biến, tuyên truyền trong các dân tộc khác. Cùng với đó người Kinh cũng học hỏi được các phương thức canh tác cổ truyền trên những triền đất dốc của các dân tộc anh em, góp phần thúc đẩy tiếp thu khoa học kỹ thuật phát triển kinh tế hộ gia đình, xóa đói giảm nghèo trong nhân dân.

  1. Chăn nuôi

Trước đây hoạt động mưu sinh của dân tộc Kinh cũng tập trung chủ yếu là trồng trọt cây lương thực như: khoai lang, lúa, ngô… Các gia đình thường tận dụng ngày tháng nông nhàn, tiết kiệm các đồ ăn thừa, hoa màu thứ phẩm và các loại rau cỏ có thể kiếm được để chăn nuôi. Những loại vật nuôi chính của họ vẫn là trâu, bò, lợn và các loại gia cầm.

Từ sau năm 1986, nhất là từ năm 1990 đến nay, hoạt động chăn nuôi bắt đầu có xu hướng phát triển sản xuất hàng hóa. Chăn nuôi không những chỉ để đáp ứng nhu cầu trong gia đình mà còn để bán. Nhiều gia đình bắt đầu nuôi các loại đại gia súc như bò, ngựa, dê… và cả ong mật, cá…

Cơ cấu vật nuôi cũng đã có nhiều thay đổi, nếu trước đây trong các loại gia cầm, đồng bào thường chỉ chú ý tới nuôi gà, thì nay hầu hết các gia đình đã chăn nuôi thêm ngan, vịt… theo kiểu công nghiệp, nuôi cá với các chủng loại giống mới, bằng thức ăn công nghiệp… Kỹ thuật chăn nuôi cũng đã được chú trọng hơn. Thông qua các cơ quan khuyến nông, các kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến đã được phổ biến rộng rãi và được áp dụng thành công.

Trong việc phát triển chăn nuôi, công tác chọn giống, phòng chống dịch bệnh cho gia súc, đẩy mạnh tăng trọng, sản lượng,… được đặc biệt chú trọng. Hiện nay các giống vật nuôi mới có sản lượng cao, đã chiếm tỷ trọng khá lớn trong thu nhập hằng năm từ chăn nuôi của đồng bào. So với các dân tộc thiểu số, cộng đồng người Kinh ở Sơn La luôn là những người đi đầu trong việc đưa chăn nuôi trở thành một trong những hoạt động có thu nhập cao trong nông nghiệp.

Ở thị trấn Nông trường Mộc Châu, nơi có tới 76,4% người Kinh đang sinh sống, chăn nuôi bò sữa là nghề phát triển mạnh; trong thời gian gần đây, đã xuất hiện nhiều mô hình chăn nuôi bò sữa theo quy mô trang trại tập trung mà chủ trang trại là người Kinh. Theo số liệu năm 2010, có 20 trang trại nuôi bò sữa của đồng bào Kinh có thu nhập trên 100 tấn sữa tươi/năm. Ngoài việc đi đầu trong chăn nuôi bò sữa và chăn nuôi các loại đại gia súc khác, người Kinh ở Sơn La còn đi đầu trong phát triển nghề nuôi cá, đặc biệt là nuôi cá lồng trên các sông hồ, đem lại thu nhập kinh tế cao.

  1. Thủ công gia đình

Dân tộc Kinh ở Sơn La, cũng như ở các khu vực miền núi khác, ít có các làng chuyên sống bằng các nghề thủ công truyền thống. Trong vài chục năm gần đây, trong nhiều gia đình đã có những hoạt động may mặc, chế biến thực phẩm như: làm giò chả, làm bún, bánh đa, miến, bánh gai, bánh phở, bánh giò…, đan lát, làm mộc, làm nghề rèn, làm gạch ngói, xây dựng… là những nghề mới có từ khi người Kinh lên sinh sống ở các huyện, thị ở Sơn La. Mặc dù các nghề thủ công này không tạo thành những thương hiệu lớn, được quảng bá rộng rãi, nhưng cũng đáp ứng các nhu cầu đời sống thường nhật của người dân địa phương.

Ở Sơn La hiện nay, nhiều ngôi nhà sàn rất đẹp của người Mường, Thái, Mông, Dao… của nhiều địa phương đều được thiết kế, xây dựng theo cách làm của người Kinh do thợ nghề là người Kinh thực hiện. Bên cạnh đó, một số địa phương, trong cộng đồng người Kinh, đã tham gia khai thác đá, đào hút cát, đãi vàng sa khoáng… Những hoạt động thủ công nghiệp này của họ đang có xu hướng ngày càng gia tăng.

  1. Trao đổi, mua bán

Hoạt động trao đổi, buôn bán của cộng đồng người Kinh ở Sơn La tương đối phát triển so với các dân tộc thiểu số khác. Có thể nói, việc thu mua nông, lâm sản và cung cấp các loại vật tư nông nghiệp, hàng tiêu dùng cho các bản làng ở Sơn La trong nhiều thập niên qua cũng như hiện nay đều do người Kinh giữ vai trò chính. Mạng lưới thương nghiệp quốc doanh ở Sơn La hiện nay tương đối mỏng, chỉ vươn tới được các thị tứ, thị trấn và các điểm dân cư chính. Trao đổi, buôn bán trong các bản làng ở Sơn La, nhất là các vùng xa xôi, hẻo lánh hầu như do người Kinh và số ít hộ người Thái, Mường,… đảm nhiệm. Cách đây một, hai chục năm, đội ngũ thương nhân không chuyên người Kinh thường tới tận các bản làng dân tộc thiểu số để bán các loại hàng tiêu dùng, nông cụ, thuốc men và thu mua các sản phẩm nông nghiệp, các loại lâm thổ sản khác.

Hiện nay, việc buôn bán của các hộ người Kinh đã được đầu tư với quy mô khá hơn. Ngoài việc đến tận các làng bản để bán, đổi, thu mua, họ còn đầu tư các gian hàng gia đình với số lượng lớn, chủng loại hàng hóa tương đối phong phú. Tại các cửa hàng gia đình của họ trong các bản, làng có đủ các loại hàng tiêu dùng gia đình: quần áo, vải, giấy, thuốc men, nông cụ, đồ điện gia dụng, máy móc đơn giản, xe đạp, đồ lưu niệm,… Nhiều gia đình còn bán cả hoa tươi trong các dịp lễ, Tết.

Tuy có tham gia buôn bán, nhưng chỉ có một số ít người Kinh đang sinh sống ở khu vực thị xã, thị trấn, thành phố, nông lâm trường,… sống bằng lương, bằng kinh doanh, dịch vụ… Còn lại gần 50% người Kinh ở nông thôn Sơn La, vẫn sống bằng nông nghiệp là chính.

Hoạt động mưu sinh của cộng đồng người Kinh ở Sơn La mang những đặc điểm của miền núi. Với sự hỗ trợ của Nhà nước và các dân tộc khác, họ đã nhanh chóng thích ứng với miền núi, tạo lập được cuộc sống ổn định và đang trong xu hướng phát triển nhanh. Trình độ và tập quán mưu sinh truyền thống của họ cơ bản vẫn được duy trì và phát huy ở đây. Các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp: ăn cơm mới, chọn ngày nhúng nước tay (sau Tết Nguyên đán); tri thức dân gian về cày cấy (nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống,…), có lịch nông vụ, xem thời tiết, chọn thời điểm gieo trồng (bao giờ vối chín bàng trôi, tua rua rụng xuống thì thôi cấy mùa,…), xem vận hạn mùa màng (sáng tốt tằm, tối tăm tốt lúa; Được mùa lúa úa mùa cau, được mùa cau đau mùa lúa) vẫn được gìn giữ, vận dụng và phát huy trong sản xuất nông nghiệp ở quê mới Sơn La.

Mặc dù sinh sống ở miền núi, trồng trọt lúa và hoa màu vẫn là các hoạt động sinh kế chủ đạo của người Kinh ở Sơn La. Các hoạt động khác như chăn nuôi, thủ công gia đình, trao đổi buôn bán… của họ đang dần thoát khỏi vai trò của các hoạt động hỗ trợ, hướng tới sản xuất hàng hóa. Có tham gia buôn bán, làm thủ công, song đa số các nông hộ người Kinh ở Sơn La vẫn sống bằng làm ruộng, trồng các loại cây công nghiệp khác. Đó là nguồn sống quan trọng và là thói quen trong nếp sống nông nghiệp của họ.

Tại Sơn La, hoạt động kinh tế của người Kinh có một số khác biệt như cơ cấu mùa vụ, phương pháp canh tác và việc dẫn thủy nhập điền,… tuy nhiên đã mang dấu ấn miền núi tương đối rõ nét. Cơ cấu các loại giống cây trồng mới đã dần thích hợp với đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu… ở Sơn La. Từ đó đã có những làng chuyên canh chè, nhãn và các cây công nghiệp khác. Hoạt động dịch vụ, giao thương buôn bán của người Kinh giữ vai trò quan trọng ở Sơn La và ngày càng có xu hướng phát triển mạnh. Họ chính là tác nhân quan trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thâm nhập vào các hoạt động kinh tế của cư dân trong tỉnh.

Với đặc điểm cư trú là phần lớn người Kinh sinh sống ở các đô thị thành phố, thị trấn của Sơn La nên đều là cư dân phi nông nghiệp hoặc bán nông nghiệp. Trong khối cư dân người Kinh ở Sơn La, một bộ phận vốn là cán bộ công chức, bộ phận đông đảo hơn là công nhân lao động trong các khu xí nghiệp, nông lâm trường… và bộ phận không nhỏ khác sinh sống bằng các nghề thủ công, chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh, buôn bán nhỏ… đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế phi nông nghiệp ở Sơn La.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *