DÂN TỘC THÁI – VĂN HOÁ TINH THẦN

  1. Tín ngưỡng

Với quan niệm thế giới ba tầng và vạn vật hữu linh, tín ngưỡng dân gian của người Thái Sơn La là tín ngưỡng đa thần (lai phi), biểu hiện qua những hình thức cúng, giỗ, tế, lễ. Có bao nhiêu “phi” (ma) sẽ có bấy nhiêu loại cúng, tế, theo ghi chép để lại thì có trên 150 loại “phi”, đồng nghĩa với 150 loại cúng, tế, lễ, trong đó có 45 loại cúng, tế, lễ lớn.

Sau đây chỉ xin nêu vắn tắt một số loại cúng “xên” thường xuyên được nhân dân tổ chức:

1.1. Tín ngưỡng dân gian thờ cúng tổ tiên “xên hưỡn”

“Xên hưỡn” được tiến hành trong Tết hoặc trước, sau Tết vài ngày. Phần việc này do ông “mo” và bà “một” đảm nhiệm. Đồ lễ gồm 1 con lợn từ 30 đến 60-70 kg (tùy điều kiện gia đình), vài con gà, kẹo bánh, chuối, mía, rượu đủ dùng. Nơi cúng là tại góc gian nhà vợ chồng chủ nhà ngủ gọi là “klọ hóng”. Dịp này bà “một” gọi hết hồn vía của người sống trong nhà và họ hàng đến ăn, phần mời tổ tiên là do ông “mo” khấn vái và mời từng hồn ma người chết đến ăn.

1.2. Tín ngưỡng dân gian cúng, tế bản “xên bản”

Là loại cúng của toàn dân bản để mời các “phi bản” là linh hồn của các vị tiền bối có công xây dựng bản về ăn cỗ, cầu khấn họ tiếp tục phù hộ độ trì cho con cháu làm ăn phát đạt, vạn sự tốt lành. Nơi cúng là ba cửa ra vào bản “tu nặm, tu ta”, “tu chá, tu quan” (cửa nước, cửa bến, cửa trưởng, phó bản). Mỗi tu (cửa) đặt một mâm gồm thịt lợn, thịt gà, chuối, mía, xôi, bánh chưng, rượu… Việc khấn vái do ông “mo” và ông “chang” đảm nhiệm. Cúng xong, các dòng họ dự cúng ăn tại chỗ, không được đem phần về.

1.3. Tín ngưỡng dân gian cúng mường “xên mường”

Từ khoảng thế kỷ XV-XVI, người Thái Sơn La có lệ “xên mường” 3-5 năm 1 lần, đồ lễ gồm có 1-2 con trâu (1 trâu trắng và 1 trâu đen), lợn, chó, vịt, gà, rượu,… Phần cúng do ông “mo”, ông “chang”, bà “một” và “nàng tánh” thực hiện. Nơi cúng tại “đông xên”. Rượu gạo và các đồ cúng, lễ vật đều do dân bản đóng góp. Sau cúng lễ mọi người chia phần ăn tại chỗ.

Nội dung “xên” toàn diện hơn, ngài mời tổ tiên, những người có công, trời, đất về chứng giám, thụ hưởng lễ vật, còn mời các thánh thần, ma quỷ đến ăn, xong rồi tống tiễn chúng đi, tiếng Thái gọi là “xên túng ký”.

1.4. Tín ngưỡng dân gian tiễn hồn ma lên trời “xống phi mữa phạ”

Từ quan niệm: Hồn người Thái Sơn La được đưa từ trời xuống “mường lum” (trần gian) qua Mường Lò (Nghĩa Lộ), khi người chết, hồn lìa khỏi xác cũng phải đưa trở lại con đường đó trở về trời, tiếng Thái gọi là “xống phi mữa phạ” (tiễn ma lên trời). Đảm nhiệm phần việc đó do vợ chồng con gái cả đọc bài dẫn, do ông “chau” (hoặc “chong”), phù tá đọc giúp, đọc đến đâu con rể cả đọc theo đến đấy.

1.5. Tín ngưỡng dân gian qua sổ “chỗng bang” và sổ “đu mự”

Hai cuốn sổ trên có giá trị vô cùng lớn, bao trùm toàn bộ sinh hoạt tín ngưỡng dân gian người Thái để xem ngày, giờ tốt xấu đi đường, làm nhà, cưới vợ gả chồng, đi săn bắn, buôn bán, tính lịch theo thiên can…

1.6. Tín ngưỡng dân gian “phồn thực”

Người Thái Sơn La chịu ảnh hưởng sâu sắc tư duy nông nghiệp lúa nước, đặc trưng là tín ngưỡng phồn thực, người Thái cổ Sơn La, hằng năm có những lễ hội tín ngưỡng phồn thực như “lồng tông”, “tỏn nãng tánh”.

1.7. Tín ngưỡng dân gian lễ đầy tháng

Lễ đầy tháng cho một đứa trẻ là tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Thái Sơn La, gọi là thờ cúng Me Bảu, Tày – Nùng gọi là Mẻ Va, Mẻ Bióoc, tức Mẻ Hoa. Quan niệm cho rằng mỗi một đứa trẻ được sinh ra trên đời đều là một bông hoa, hoa vàng là con trai, hoa bạc là con gái. Me Bảu (bà mẫu, bà mụ) là nữ thần ban phát và chăm lo sức khỏe cho đứa trẻ lớn khôn, trưởng thành, do đó thờ cúng Me Bảu có ý nghĩa quan trọng, là tín ngưỡng dân gian phổ biến nhất.

1.8. Tín ngưỡng dân gian trong hôn nhân gia đình

Để kết duyên đôi lứa – vợ chồng trăm năm, người Thái phải trải qua rất nhiều thủ tục khấn vái cầu kỳ, từ “Ổ vãy khay hó” (mở gói, nói chuyện) đến “xú phả” (ghép chăn đệm), thờ cúng tổ tiên “xên hướn”, tiệc cưới làm lễ thành hôn, lạy ông bà, cha mẹ, hát múa…

1.9. Tín ngưỡng dân gian thờ cúng Nàng Han

Nàng Han là một nữ tướng tài giỏi, biết vận động toàn dân, chiêu tập quân mã, tướng mã đứng lên chiến đấu chống giặc Phẻ phương Bắc trên khắp các vùng đất từ Mường So – Phong Thổ (Lai Châu) đến Phù Yên (Sơn La). Sau chiến thắng vẻ vang, nàng Han trở về trời. Đến nay khắp nơi vùng Tây Bắc, người Thái Trắng đều tôn vinh và thờ cúng người nữ anh hùng của dân tộc.

  1. Tôn giáo

Hầu hết người Thái ở Sơn La vẫn thờ cúng tổ tiên theo truyền thống, chỉ có 0,02% số dân là theo các tôn giáo hiện đại, trong đó chỉ có 8 người theo Công giáo và 6 người theo Phật giáo, mỗi tôn giáo này số tín đồ chỉ chiếm 0,001% dân số người Thái trong toàn tỉnh.

  1. Tập quán trong chu kỳ đời người

3.1. Sinh đẻ

Phụ nữ Thái đẻ ngồi hoặc đẻ nằm. Người đỡ đẻ thường là một cụ bà có kinh nghiệm hoặc mẹ chồng. Đứa trẻ sinh ra được tắm rửa bằng nước ấm, quấn tã lót rồi đặt nằm trong cái nia. Người ta cắt rốn bằng cật nứa, nhau trẻ (nhau thai) được bỏ vào ống nứa rồi đem giấu vào vạt rừng nằm ở hướng mặt trời mọc. Trường hợp khó đẻ, người ta mời một người biết cúng đến, lấy bát nước lã, đọc phù chú rồi cho người đẻ uống ba ngụm, sau đó úp bát nước lã xuống sàn nhà. Trường hợp đứa trẻ sinh trùng với ngày sinh của người bố thì phải gửi đứa con cho người khác nuôi.

Để giúp cho sản phụ mau hồi sức, sau khi đẻ, sản phụ được nằm bên cạnh bếp lửa. Thời gian ở cữ của phụ nữ thường chỉ 3-4 ngày (có khi 5-10 ngày). Trong thời gian này, sản phụ được bồi dưỡng các loại thức ăn khô: thịt nạc, cá nướng, trứng luộc, ăn cơm lam, canh rau nhạt. Nếu người mẹ ít sữa, người ta hái măng mây nấu canh hoặc ăn canh hầm từ chân lợn rừng.

Lễ ra cữ (nhá phay) và đặt tên được tổ chức sau khi hết thời gian ở cữ nói trên. Gia chủ phải mổ gà, mời thầy cúng đến cúng. Ngoài anh em họ hàng, nhất thiết phải có bên ngoại và bà con họ hàng đến chia vui. Lễ vật gồm: 2 con gà, xôi, rượu, cá nướng, cơm lam. Người ta dọn thành hai mâm: một mâm cúng báo gia tiên, một mâm làm vía (hằng khen) cho sản phụ và đứa trẻ. Bà con họ hàng và bên ngoại thường phải mang theo một số tặng phẩm như quần, áo, mũ, vòng tay, vòng cổ làm quà cho đứa trẻ. Riêng ông mối của đôi vợ chồng nhất thiết phải có một bộ quần áo, hai con gà đến mừng.

Sau khi cúng xong, người mẹ ẵm đứa trẻ xuống sàn, ra ngoài sân để trình trời đất. Xuống đến chân cầu thang, một phụ nữ cầm kéo cắt lấy ba nhúm tóc của đứa bé. Mọi người tập trung tại khoảng sân trước nhà, xung quanh bày sẵn một số nông cụ và vật dụng: chài, dao, rìu, nỏ, cày, bừa (nếu là con trai); giỏ cá, thúng, vợt, hộp kim chỉ… (nếu là con gái). Ý nghĩa của các nông cụ và vật dụng này là cầu mong cho đứa trẻ sau này lớn lên sẽ thành thạo các kỹ năng lao động theo giới. Sau đó, bà nội hoặc bà ngoại của đứa bé là người trộn cơm lam với cá nướng rồi mớm cho đứa trẻ. Nghi thức này kết thúc, người ta ẵm đứa bé lên nhà.

Cách đặt tên: Trước kia, tên của đứa con đầu lòng thường do ông cậu đặt, nhằm để không trùng với tên của những thành viên bên ngoại. Trẻ em người Thái thường có hai tên (nay chỉ đặt một tên): lúc còn nhỏ, trẻ thường được đặt các từ xấu xí để ma khỏi “ganh tị”, làm hại như Khứn (hăng), Đăm (đen) hoặc các từ hàm nghĩa trìu mến như Êu nọi (nhỏ), E (bé bỏng), Panh (đắt), Păn (chia), Inh (nhờ vả), Ón (mềm), Hiểm (quý…).

3.2. Hôn nhân, cưới xin

Hôn nhân của người Thái Sơn La tuân theo nguyên tắc thuận chiều, ngoại hôn dòng họ. Theo đó, những người cùng mang tên họ từ 3 đến 5 đời tuyệt đối không được kết hôn với nhau. Theo tục lệ hôn nhân của người Thái, nhà trai phải trả cho nhà gái một khoản tiền thách cưới gọi là cá hua. Con cái đặt theo họ cha, có sự phân biệt giữa dòng họ quý tộc với dòng họ dân thường, phân biệt giàu nghèo. Trước kia, người Thái có tục ở rể (dú khươi), có hai giai đoạn ở rể: giai đoạn đầu gọi là “khươi quản”, đôi trai gái chưa nên vợ nên chồng, người con trai đến ở rể được bố trí ngủ ở gian phía quản (cuông quản). Thời gian này đôi trai gái mới có dịp tìm hiểu nhau, cùng lao động làm ra của cải, gia đình nhà gái có thời gian đánh giá con rể tương lai. Thời gian ở rể giai đoạn này có thể từ 6 tháng đến 1 năm, tùy từng gia đình hoặc từng đôi trai gái, khi gia đình ưng chàng rể, đôi trai gái thật sự yêu nhau thì tiến tới các lễ nghi cưới xin. Sau khi cưới thành vợ thành chồng, con rể vẫn tiếp tục ở rể, hai vợ chồng được ngủ cùng bên gian nhà phía chãn và sinh hoạt cùng với gia đình nhưng được phép tích lũy tài sản riêng. Tùy từng gia đình, thời gian ở rể giai đoạn này có thể kéo dài từ 2-5 năm, nếu gia đình nhà trai neo người hoặc có điều kiện về kinh tế sẽ trả một món tiền cho nhà gái (nếu nhà gái thách cưới) và được đón dâu về nhà sớm.

Đối với người Thái Đen ở Mường La trước kia, lệ mường quy định: lễ cưới gồm 6 bước: ướm hỏi (pay chóm), đi ăn hỏi (pay vay nhĩnh – do phụ nữ đi), đi bàn bạc thống nhất thủ tục ở rể, cưới xin (pay vay chãi – đàn ông đi) lúc này là “ăn đứt giá”, nói dứt lời (ôm khát ca, vả khát quam), dẫn rể quản (xống khươi quản), cưới lên (đoong khửn – trong bước này, cô dâu chú rể phải làm lễ búi tóc ngược – tẳng cẩu), cưới xuống (đoong lông) rước hồn cô dâu (hặp tạy ho). Trong lễ cưới bên nhà gái, sau thủ tục bàn giao sính lễ, nghi thức quan trọng nhất trong lễ cưới của người Thái Đen là lễ “tẳng cảu” (búi tóc ngược) cho cô dâu. Búi tóc ngược là dấu hiệu để khẳng định người con gái từ nay đã có chồng. Người Thái Trắng không theo tục này.

Hiện nay, lễ cưới của người Thái Sơn La, một mặt vừa bảo lưu những yếu tố truyền thống, mặt khác lại vừa có sự tiếp thu, ảnh hưởng các yếu tố văn hóa và nếp sống mới. Các yếu tố văn hóa truyền thống và yếu tố văn hóa mới được kết hợp với nhau một cách hài hòa, tự giác. Sự biến đổi trong lễ cưới của họ được thể hiện qua các mặt sau đây:

Một trong những thay đổi đáng kể trong lễ cưới là sự giảm bớt số lần dạm hỏi cũng như số lượng lễ vật phải có trước khi làm lễ cưới lần một. Trước kia, nhà trai phải tiến hành 3-4 lần dạm hỏi, kèm theo nhiều nghi lễ phức tạp trước, trong và sau khi cưới chính thức, bên cạnh đó, số lượng và chủng loại các lễ vật cũng tăng sau mỗi lần dạm hỏi và gần như bắt buộc. Hiện nay, người ta có thể thỏa thuận với nhau chỉ đi dạm hỏi 1 hoặc 2 lần. Số lượng và chủng loại lễ vật cũng được lược bớt đi khá nhiều so với trước kia. Các nghi thức trong đám cưới cũng giảm thiểu đáng kể hoặc được đơn giản hóa nhiều cả lễ cưới bên nhà gái cũng như bên nhà trai. Các chế định ngặt nghèo của luật tục trong gia đình, dòng họ cũng không còn khắt khe như trước kia nữa.

Sự thay đổi mang tính phổ biến trong đám cưới của người Thái Sơn La hiện nay còn phải kể tới việc tiếp thu, ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa hiện đại: trang phục của cô dâu và chú rể (váy cưới, comple); việc phổ biến và sử dụng các loại nhạc cụ hiện đại thay cho các loại nhạc cụ truyền thống như khèn, sáo; các làn điệu dân ca (khắp), các món ăn mới. Theo đó, bên cạnh váy, áo, chăn, đệm, gối, của hồi môn của cô dâu khi về nhà chồng cũng được bổ sung thêm một số thứ. Ngoài ra, còn phải kể đến các yếu tố văn hóa mới khác như thiếp mời thay cho mời miệng; quà mừng cưới giờ đây không chỉ còn là bát gạo, chai rượu mà được thay thế bằng tiền mặt hoặc bằng quà tặng có giá trị vật chất. Thay vì sự tương trợ, giờ đây các dịch vụ chụp ảnh, thuê ô tô, dàn nhạc sống, bát đĩa, mâm, bàn ghế, phông màn, đồ ăn, thức uống… cũng đang ngày càng phổ biến.

Một thay đổi nữa có thể thấy trong đám cưới của người Thái Sơn La hiện nay là do đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, nên quy mô tổ chức đám cưới có xu hướng hoành tráng hơn, số lượng khách mời ngày càng nhiều hơn.

3.3. Tang ma

Tùy theo từng ngành Thái, ở từng địa phương, đặc biệt giữa dòng họ quý tộc và dòng họ dân, phong tục, quy mô và số lượng các nghi thức trong tang ma có khác nhau. Nhìn chung, người Thái có hai hình thức tang lễ: Địa táng và hỏa táng, thường trải qua 5 ngày. Ngày thứ nhất gọi là “quàn và thức ma dậy” (đoi, púc phi tứn), sau đó đi đón rể “đón rể” (hặp khươi), người Thái Trắng cử con trai để phục vụ; ngày thứ hai thông báo cho bà con họ hàng, anh em gần xa đến (pay tẵn) và làm các thủ tục cúng bái (các gia đình con cháu làm các mâm cúng riêng, tùy theo điều kiện từng gia đình có thể là một con gà, hoặc con lợn, rượu, hoa quả, bánh kẹo…); ngày thứ ba gọi là “ngày đặt” (mự pông – thi hài của người quá cố được đưa ra khỏi nhà để vào rừng ma), có gia đình dòng họ hỏa táng ngày này; ngày thứ tư gọi là “ngày đưa” (mự xống), gia đình nào hỏa táng thì ngày này dậy sớm đi nhặt xương cốt cho vào tiểu rồi làm thủ tục đưa ma (lúc này hồn ma của người chết mới được tiễn ra rừng); ngày thứ năm là ngày làm lễ gọi hồn ma về nhập gia tiên (au phi khửn hươn). Đối với Thái Trắng, việc con cái, anh em trong dòng họ phải đưa cơm ra thăm mộ kéo dài 12 ngày mới kết thúc.

Trong tang lễ của người Thái không có kèn, trống, chỉ có các ông mo đọc các bài cúng dẫn hồn, nhưng vùng Thái Trắng Phù Yên đã có sự giao thoa văn hóa với dân tộc Mường nên đám tang có cử nhạc tang lễ gồm các loại nhạc cụ: trống cái, trống con, khèn, chiêng, đuống, ống tre.

Hiện nay, một thay đổi dễ nhận thấy trong tang ma của người Thái Sơn La là xu hướng rút ngắn về thời gian tổ chức. Nếu như trước kia, đám tang thường kéo dài vài ba đêm, thì ngày nay chỉ gói gọn trong vòng một ngày đêm. Như vậy, các nghi lễ tang ma cũng được giản lược bớt, trình tự các nghi thức trong lễ cúng tiễn hồn người chết cũng được rút ngắn đi.

Nếu như trước kia, khi cha mẹ chết, tất cả các con (nhất là con trai) phải ăn kiêng: không được ăn thịt, chỉ được ăn cơm với muối, rau để tỏ lòng hiếu thảo, khi ăn phải đứng, ăn bốc, thì ngày nay, việc ăn kiêng không còn bắt buộc. Trước kia, ở vùng nông thôn, việc phúng viếng của bà con trong bản chủ yếu là gạo, gà và một vài hào bạc, còn hiện nay, đồ phúng viếng chủ yếu dùng tiền mặt. Tuy nhiên, tập quán tương trợ, giúp nhau trong tang ma vẫn được duy trì như: thanh niên nam nữ giúp tang chủ dựng rạp, lấy củi, hái rau, mổ thịt lợn, gà, trâu/ bò, nấu nướng, dọn dẹp… Một số khác thì giúp tang chủ đào huyệt mộ, khiêng quan tài, hạ huyệt, chôn cất.

  1. Ngôn ngữ và văn học, nghệ thuật dân gian

4.1. Ngôn ngữ và văn học dân gian

Ngôn ngữ và chữ viết

Ngôn ngữ của người Thái Sơn La thuộc nhóm ngôn ngữ Thái, nhánh Thái – Day, họ Thái – Kađai, có những phương ngữ sau đây:

Tiếng Thái vùng Thái Đen 1 bao gồm: Mường La, Thuận Châu, Mai Sơn, Sông Mã, và một phần phía nam Quỳnh Nhai; tiếng Thái Đen 2: Yên Châu; tiếng Thái Trắng 1: phía bắc Quỳnh Nhai; tiếng Thái Trắng 2: Mộc Châu; tiếng Thái Trắng 3: Phù Yên, Bắc Yên.

Về thanh điệu: Ngôn ngữ Thái giàu thanh điệu nên khi nói sẽ tạo ra nhiều âm thanh trầm bổng, uyển chuyển dễ nghe và lôi cuốn.

Về âm tiết: Một số vần không có trong ngôn ngữ khác, không phân biệt rõ một số cặp vần, không phân biệt rõ một số âm; nhiều vùng không phân biệt rõ giữa âm “b” – “v” và âm “đ” – “l”; tiếng Thái có nhiều âm tiết ghép.

Về từ ngữ: Đại từ nhân xưng được chia ngôi thứ và số ít, số nhiều nhưng khi nói một cách trịnh trọng, nghi thức hay trước đông người thì đại từ nhân xưng có thay đổi. Phó từ trong tiếng Thái rất phong phú. Số từ “1” trong tiếng Thái có cấu tạo ngược.

Về câu: Đa số câu trong tiếng Thái cũng giống như câu trong tiếng phổ thông. Mỗi câu đều có chủ ngữ và vị ngữ. Cũng có câu đơn giản, câu phức tạp.

Người Thái Việt Nam nói chung và Sơn La nói riêng là một trong rất ít dân tộc có chữ viết từ khá sớm. Theo Quam tô mương (truyện kể về mường) thì từ thời Tạo Xuông, Tạo Ngần đưa dân Thái từ Mường Ôm, Mường Ai đến khai khẩn đất Mường Lò đã có “Một mường”, “Mo mường” mang theo sách sử và sách xem ngày lành tháng tốt. Khi đi mở mang bờ cõi, Lạng Chượng đã mang theo cả ông Mo, ông Nghè để ghi chép và sáng tạo nên sử thi Táy pú xớc và khởi thảo Quam tô mương – hai tác phẩm bất hủ của lịch sử Thái, được lưu truyền cho tới ngày nay. Như vậy, chữ Thái đã có từ hàng nghìn năm nay. Và người Thái ý thức đầy đủ về việc ghi chép lịch sử dân tộc mình…

Chữ Thái Việt Nam có nguồn gốc từ hệ chữ Phạn (Brahmic), nhánh phương Nam, chịu ảnh hưởng của chữ Kh’mer và gần gũi với chữ Thái Lan, chữ Lào. Theo nhà nghiên cứu tôn giáo người Pháp L. Finô, chữ Thái có từ thế kỷ VI. Đó là thứ chữ theo hệ Pali miền Nam Ấn Độ.

Văn học dân gian

Từ khi hình thành cho đến nay, dân tộc Thái đã sáng tác ra nhiều tác phẩm văn học có giá trị, trong đó truyền thuyết, cổ tích có vị trí quan trọng trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc Thái. Những truyện truyền thuyết, cổ tích đó được nhân dân kể lại, truyền từ đời này đến đời khác. Về sau đã được các ông “chang” ghi chép lại thành những truyện thơ dài. Những câu truyện ngắn gọn của ông bà kể để giáo dục con cháu. Công tác sưu tầm, bảo tồn, ghi chép lại các tác phẩm chưa được đầy đủ, vẫn còn lưu truyền trong nhân dân, nhất là những người già am hiểu; một số được sưu tầm, dịch ra tiếng phổ thông, được in thành sách phổ biến rộng rãi từ những năm 60 của thế kỷ XX.

Sử thi anh hùng: Trong văn học Thái, sử thi anh hùng phải kể đến các tác phẩm Chương Han, Táy pú xớc, Nàng Han, v.v..

Về truyện cổ tích: Kho tàng truyện cổ tích dân tộc Thái vô cùng phong phú, đa dạng và có sức hấp dẫn do thấm đẫm cách tư duy, óc thẩm mỹ, đặc trưng tâm hồn của dân tộc Thái. Sức hấp dẫn của câu chuyện không những ở cách kể mà còn ở nội dung câu chuyện, giản dị, gần gũi, quen thuộc với cuộc sống thường ngày, mang lại những khám phá thú vị và những bài học đạo đức sâu sắc.

Tục ngữ, thành ngữ: Sách chữ Thái cổ có câu “Phương ngôn, tục ngữ, thành ngữ không bỏ phí hoài. Đó là lời chỉ bảo khuyên răn làm người” (Quám chiễn lãng báu vãng sin lạ, nắm bók chảu luỗng lắc pên kỗn). Tục ngữ, thành ngữ vừa là kho tri thức vừa là kho tư liệu giáo dục truyền thống. Trong khuyên răn dạy bảo, lối giao tiếp tục ngữ, thành ngữ có vị trí quan trọng làm cho lời thêm hay ý thêm đẹp, truyền cảm, khiến cho đối tượng dễ nghe, dễ tiếp thu, là một phần không thể thiếu trong giao tiếp hằng ngày.

Do chữ viết có từ rất sớm nên tục ngữ, thành ngữ Thái khá phong phú, đa dạng. Hiện nay mới chỉ sưu tầm và dịch ra tiếng Việt được một số lượng nhỏ.

Tục ngữ, thành ngữ Thái ngoài mang nội dung, tính chất tương đồng như tục ngữ, thành ngữ các dân tộc anh em, nó có sắc thái, đặc điểm riêng, đó là tính chân thực, mộc mạc, quan niệm về đất trời và sự sống rõ nét, cách so sánh, ví von, ẩn dụ mang đậm bản sắc dân tộc.

Truyện thơ: Truyện thơ Thái là một thể loại độc đáo và tiêu biểu, kết tinh truyền thống văn hóa – văn nghệ, sinh hoạt ca hát của dân tộc Thái và được họ trân trọng, yêu thích. Truyện thơ Thái ra đời do nhu cầu lịch sử – xã hội của thời đại. Có thể nói, dân tộc Thái có một kho tàng truyện thơ phong phú và đa dạng về số lượng cũng như đề tài, dựa vào đề tài, truyện thơ Thái có thể chia làm các loại: truyện thơ về tình yêu; truyện thơ về người nghèo khổ; truyện thơ về chính nghĩa,…

4.2. Nghệ thuật

Dân ca (khắp)

Khắp nghĩa thực là hát, nhưng còn có nghĩa là thơ ca, làn điệu dân ca, cách trình diễn thơ ca… Những lời khắp có vần vè như thơ nhưng hơn nữa nó còn có nhạc điệu và tiết tấu rất cao.

Hiện nay dân tộc Thái vẫn tồn tại nhiều lời khắp truyền thống. Làn điệu khắp khá phong phú và đa dạng, trong đó có những làn điệu đặc trưng của từng vùng. Các làn điệu này đã được nhiều thế hệ tiếp thu, chọn lọc từ những tinh hoa văn hóa, chau chuốt thêm để đưa khắp Thái đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, làm kho tàng văn hóa của dân tộc Thái ngày càng đa dạng, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa chung của đất nước.

Dân vũ (múa dân gian)

Trước đây người Thái gọi nghệ thuật múa của mình là “xé”: “xé thăn” – múa khăn, “xé cúp” – múa nón, “xé vi” – múa quạt, “xé má hính” – múa quả nhạc… “điệu xé, bài xé” là điệu múa, bài múa. Đến giữa thế kỷ XX trong tiếng Việt, từ “xé” biến âm thành “xòe”. Ngày nay, nghệ thuật múa, tác phẩm múa được nhân dân quen dùng để gọi nghệ thuật xòe, điệu xòe, bài xòe. Khái niệm điệu xòe, bài xòe được biểu hiện như một đơn vị biểu diễn có độ dài, ngắn, co dãn không ổn định. Một đơn vị biểu diễn lặp đi lặp lại chỉ một động tác múa gọi là điệu múa, nhưng một đơn vị múa có kết cấu nhiều động tác, tổ hợp động tác múa cũng gọi là một điệu múa.

Người xòe gọi là xao xé (gái xòe). Người gẩy đàn gọi là báo khỏa (trai đàn), nghĩa là đệm đàn cho xao xé tập và biểu diễn xòe.

Âm nhạc và nhạc cụ

Âm nhạc của người Thái Sơn La mang đậm tính dân gian nên được coi là âm nhạc của cuộc sống, bắt nguồn từ trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt thường ngày của họ. Các thể loại, các hoạt động âm nhạc thường được sáng tạo ra để đáp ứng một nhu cầu thiết thực nào đó trong cuộc sống con người.

Dân tộc Thái có các loại nhạc cụ như: Trống (cồng), chiêng đồng, pí pặp, sáo (pí thiu), khèn bè, tính tẩu, xì xơ lo (là nhạc cụ thuộc họ dây), pí phướng, pí cổng, pí tam lay, pí đôi, pí một lao, hừn tóng (đàn môi)… Người Thái sử dụng các nhạc cụ trong các dịp lễ hội, vui Tết, lên nhà mới và các hoạt động văn nghệ, kể cả nghi lễ về tâm linh.

Hoa văn dân gian

Bao gồm họa tiết điêu khắc gỗ và đan mây, tre và họa tiết trên vải. Họa tiết điêu khắc gỗ có tên khau cút được treo trên hai đầu hồi mái nhà sàn của người Thái Đen. Trước kia nhìn vào bộ trang trí này người ta biết được vị trí xã hội của chủ nhà. Họa tiết điêu khắc còn thực hiện trên khung và tấm chắn cửa sổ và trang trí trên các mặt dụng cụ dùng để làm đồ đựng… Các mẫu hoa văn tuy nhiều hình, nhiều vẻ nhưng đều gọi chung bằng một tên chung là hoa văn ăm.

Họa tiết trên vải có nguồn gốc từ việc kế thừa cách thể hiện hoa văn ăm, và từ việc dệt nên các tấm thổ cẩm để làm chăn, đệm, gối… Ngoài ra, còn có cách thể hiện họa tiết trang trí trên vải bằng phương pháp thêu thùa bằng chỉ màu trên khăn đội đầu (khăn piêu), trên nền vải làm khăn tay, mặt rèm và dải đỉnh màn… bằng các họa tiết hình kỷ hà. Ngoài ra, còn có nghệ thuật khâu ghép đáp vải màu, bắt nguồn từ việc khâu ghép bộ da các loài thú săn bắt được. Nghệ thuật khâu ghép này phổ biến ở phía Bắc, nó thể hiện sự khéo léo của đôi tay người phụ nữ Thái, vượt xa khỏi khuôn mẫu hạn chế của cách dệt hoa văn hình kỷ hà.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *